Chào GS! Xin chúc mừng GS mới đây được tạp chí PloS Biology của Mỹ tiếp tục xếp hạng đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, là 1 trong 5 nhà khoa học vào top 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng trích dẫn hàng đầu thế giới. GS có thể chia sẻ cảm xúc lúc này?
– Sau khi nhận được thông tin tôi hoàn toàn bất ngờ vì thực sự làm khoa học không ai nghĩ đến việc để xếp hạng. Kết quả này là nguồn cổ vũ, động viên rất lớn cho tôi và các thế hệ học trò vững tin vào con đường khoa học mình đã chọn, đồng thời tự tin sánh bước với các đồng nghiệp quốc tế.
Năm nay có 28 nhà khoa học Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 10.000 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới này. Theo GS, các nhà khoa học Việt Nam so với thế giới thế nào?
– Khi chúng tôi đi du học nước ngoài, kết quả học tập và nghiên cứu của người Việt Nam cũng không thua bất cứ người nước ngoài nào. Có thể nói trí tuệ của người Việt rất thông minh. Ngay cả trên đấu trường khoa học quốc tế, chúng ta tự hào có GS Ngô Bảo Châu đoạt giải Fields. Nhiều giáo sư người Việt khác cũng đạt được những giải thưởng danh giá khác về khoa học. Điều đó cho thấy năng lực trí tuệ và sáng tạo của người Việt Nam không thua kém gì so với thế giới.
Công bố quốc tế của Việt Nam, nếu như cách đây 10-15 năm thuộc hạng cuối của các nước trong khu vực, nhưng năm vừa rồi, theo công bố của Bộ KHCN đã vươn lên đứng thứ 3 sau Singapore, Malaysia và thứ 49 của thế giới. 2 ĐHQG cùng một số đại học khác cũng đã có thứ hạng khá cao trong các bảng xếp hạng đại học của khu vực và thế giới.
Nói như vậy để thấy giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam đang ngày càng phát triển, hội nhập được các tiêu chí cũng như chuẩn mực của thế giới.
Theo GS, tố chất cần có của người làm khoa học là gì?
– Từ những trải nghiệm của bản thân sau chặng đường dài gần 40 năm, tôi thấy để làm khoa học cần có sự đam mê và kiên trì. Trên con đường làm khoa học rất nhiều khó khăn, thử thách về cuộc sống, thiếu thốn cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm. Nếu như mình nản chí thì rất khó để đến đích. Ngoài ra, làm khoa học phải có ý thức hội nhập, bắt nhịp với các hướng nghiên cứu hiện đại của quốc tế và xu thế của thời đại, vì đây là những yếu tố tiên quyết để các kết quả nghiên cứu của mình có tầm ảnh hưởng, được lan tỏa trong cộng đồng quốc tế.
Quan điểm của GS về việc các nhà khoa học không ở Việt Nam mà làm việc ở nước ngoài, đấy có gọi là chảy máu chất xám không?
– Những năm gần đây nhờ có sự tự chủ ở các trường đại học, có một số trường công lập và một số trường đại học dân lập, bán công đã tạo được nguồn lực để thu hút nhân tài về nước làm việc rất thành công, thậm chí thu hút cả người nước ngoài, các GS Việt kiều về nước làm việc, hạn chế được chảy máu chất xám.
Tuy nhiên, với cá nhân tôi, tôi cho rằng chúng ta cũng nên hiểu chảy máu chất xám một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Đã là người Việt Nam thì ở đâu cũng đều hướng về đất nước, hướng về nguồn cội với tình yêu tha thiết và đều có thể đóng góp, xây dựng tổ quốc. Bối cảnh thế giới ngày càng hội nhập, nhất là trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay, hầu như không còn hạn chế về biên giới trong hợp tác nghiên cứu nên điều kiện đóng góp cho đất nước dẫu đang ở nước ngoài ngày càng nhanh và hiệu quả hơn.
Nếu như một tri thức làm việc ở nước ngoài vẫn hướng về quê hương, đem tài năng cống hiến cho khoa học, làm rạng danh cho tổ quốc, đồng thời lại đem được kiến thức, kinh nghiệm, nhiệt tình của mình hợp tác với các nhà khoa học trong nước, đóng góp hiệu quả, có trách nhiệm với đất nước thì công lao của họ cũng không hề nhỏ, rất đáng ghi nhận và biểu dương.
Vậy còn GS, sau nhiều năm học tập và làm việc ở nước ngoài, giành cho mình nhiều thành công, lý do nào GS trở về Việt Nam làm việc từ năm 2004?
– Những năm tôi tốt nghiệp xong bảo vệ luận án tiến sĩ, nước ta còn rất nghèo và tôi có cơ hội làm việc postdoc ở những nước phát triển. Nhưng trước hết là tình cảm sâu nặng với gia đình và quê hương, sau là lĩnh vực nghiên cứu của tôi về vật liệu mới composite đang được ứng dụng rất mạnh mẽ trên thế giới. Khi đó 2 giáo sư – những người thầy của tôi, là 2 nhà khoa học lớn, một ở ĐH Tổng hợp Lomonoxop (MGU) và một ở Viện Hàn lâm Khoa học Nga – đã khuyên tôi về nước làm việc để đem kiến thức và tuổi trẻ của mình phục vụ Tổ quốc.
Hướng nghiên cứu của tôi là vật liệu mới rất bền và siêu bền. Cá nhân tôi cũng nhận thức được những vật liệu mới này rất quan trọng trong việc xây dựng và kiến thiết đất nước nên tôi chỉ có mong muốn là làm sao những kiến thức mình đã học được có thể phục vụ đất nước, biến ước mơ thành hiện thực. Lúc đó tuổi đời còn trẻ, có nhiều ước mơ cháy bỏng và kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu quê nhà sâu nặng khiến cho tôi sau rất nhiều trăn trở và cân nhắc đã quyết định trở về.
Vậy sự trở về đó của GS có gặp khó khăn gì không?
– Khi trở về tôi gặp rất nhiều khó khăn vì sống ở nước ngoài thời gian dài nên cần có thời gian để thích nghi.
Tuổi đời khi đó còn trẻ, mới bảo vệ luận án về nước nên cần thời gian và sự nỗ lực để khẳng định mình với cộng đồng khoa học trong nước.
Nói thực lòng, là mức lương quá thấp, không đủ sống. Tôi nhớ tháng lương đầu tiên tôi được nhận sau thời gian dài ở nước ngoài về năm 2001 là 341.000 đồng, tương đương khoảng 30 đô la, trong khi các con còn bé và cuộc sống có rất nhiều thứ phải trang trải.
Muôn vàn khó khăn ban đầu về cơ sở vật chất. Phòng thí nghiệm về composite khi đó gần như “zero”, nên dù có rất nhiều ước mơ hoài bão song kinh phí từ nghiên cứu đến triển khai ứng dụng đều rất ít, không biết bắt đầu từ đâu và làm như thế nào. Tuy nhiên bài học và tấm gương sáng của các thế hệ trí thức đi trước như GS Trần Đại Nghĩa, GS Phạm Ngọc Thạch… – trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và gian khổ hơn nhiều lần mà còn cống hiến được rất tốt, giúp cho tôi có nghị lực và niềm tin để vượt qua khó khăn.
Nhưng đúng là “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, việc gì cũng vậy, muốn thành công cần có sự am hiểu kỹ và kiên trì. Từ những buổi đầu tiên gây dựng nhóm nghiên cứu, tìm hiểu thực tế Việt Nam đến hợp tác nghiên cứu với các đồng nghiệp trong và ngoài nước, lại được sự động viên của gia đình, đồng nghiệp, dần dần tôi đã từng bước vượt qua được những khó khăn. Tôi tìm được hướng đi cho mình, xây dựng thành công nhóm nghiên cứu mạnh về Vật liệu và Kết cấu tiên tiến ở ĐHQGHN và đã phát huy được năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học của mình.
Theo GS, Việt Nam hiện nay cần làm gì để thu hút nhân tài về nước nghiên cứu khoa học?
– Theo tôi, muốn thu hút nhân tài, trước hết phải có chính sách sử dụng đúng. Nếu được trọng dụng thì sẽ thu hút được nhân tài và các nhân tài sẽ có động lực để phát huy vượt bậc tài năng, sức sáng tạo, sức cống hiến của mình.
Trí thức rất cần được lắng nghe, được tạo điều kiện để nghiên cứu và phát huy tài năng. Vì vậy, trong mỗi cơ quan, tổ chức, hãy đừng để nhân tài nào bị bỏ sót, đừng để sáng kiến nào bị lãng quên.
Bên cạnh các chính sách của Nhà nước, các trường đại học cần có các chính sách riêng của từng trường để thu hút và tạo điều kiện cho các nhà khoa học thực hiện hoài bão của mình.
Thứ 2, muốn có chính sách đãi ngộ tốt thì các trường cần có nguồn lực. Tự chủ đại học chính là giải pháp tốt, phù hợp để các trường có thể phát huy mọi nguồn lực, từ đó mới có thực lực để thu hút chất xám không chỉ là người Việt Nam mà còn với người nước ngoài. Thời đại bây giờ là cạnh tranh, ở đâu có chất xám, có trí tuệ thì sẽ vươn lên.
Thứ 3, cần hoàn thiện thể chế và chính sách hiện có. Nhà nước cần tạo điều kiện cởi mở, thông thoáng hơn phương thức chọn và giao các nhiệm vụ KHCN cũng như đổi mới các quy định thanh quyết toán với các đề tài. Trong hoạt động KHCN rất cần nhất sự minh bạch, các tiêu chí định lượng để đánh giá hiệu quả và năng suất hoạt động KHCN theo các chuẩn mực quốc tế.
Cần chú trọng phát hiện các tài năng trẻ, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, tập trung ưu tiên đầu tư cho các hướng nghiên cứu hiện đại,… đi đôi với mạnh dạn đãi ngộ và tôn vinh các trí thức tài năng. Đó chính là động lực để thúc đẩy các nhà khoa học phấn đấu và thúc đẩy sự phát triển tiềm lực khoa học của nước nhà.
Ngay với bảng xếp hạng này, bên cạnh những giáo sư nổi tiếng, chúng ta có thể thấy có những tiến sĩ rất trẻ. Số lượng trí thức người Việt trong bảng xếp hạng này ngày càng tăng và càng có thêm nhiều gương mặt mới, trẻ tuổi. Đấy là tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự tăng trưởng về chất lượng và số lượng tiềm lực KHCN của Việt Nam.
Nhà khoa học cống hiến không vì để xếp hạng, nhưng được đánh giá, xếp hạng trong các bảng xếp hạng có uy tín một cách công bằng và khách quan là một niềm tự hào, vinh dự. Nếu không có cơ sở dữ liệu để đánh giá, định lượng kết quả nghiên cứu của nhà khoa học và ảnh hưởng của nó theo các chuẩn mực quốc tế, chúng ta sẽ không biết được mình đang ở đâu so với các đồng nghiệp quốc tế. Biết bao giờ các bạn trẻ tài năng và nỗ lực vượt bậc mới được thừa nhận, được tôn vinh để từ đó có thêm động lực và niềm tin tiếp tục phấn đấu, dấn thân vào con đường nghiên cứu khoa học đầy gian truân.
Tình trạnh các công trình khoa học nghiên cứu rồi “đút ngăn kéo” tại Việt Nam được nhiều lần nhắc tới vì không chỉ gây lãng phí tài nguyên chất xám mà còn ngân sách của quốc gia… Ý kiến của ông về vấn đề này thế nào?
– Giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao trí thức và công nghệ vào thực tiễn là chức năng của cơ sở giáo dục đại học, là trách nghiệm, nghĩa vụ của các giảng viên – nhà khoa học trong các trường đại học.
Đã là giảng viên đại học thì đương nhiên phải nghiên cứu khoa học, sáng tạo tri thức. Thông qua nghiên cứu khoa học đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao. Quốc gia nào cũng vậy, trong trường đại học sẽ luôn có những nghiên cứu cơ bản. Những nghiên cứu này góp phần phát hiện các quy luật khách quan, bản chất của sự vật, hiện tượng, có thể không phục vụ trực tiếp và ngay cho xã hội, nhưng lại đóng góp cho sự phát triển của khoa học. Vì vậy, đương nhiên sẽ có những đề tài thuộc dạng nghiên cứu cơ bản. Lịch sử đã cho thấy có nhiều nghiên cứu, phát hiện của các nhà khoa học sau nhiều năm mới được áp dụng vào cuộc sống.
Mặt khác, ở tất cả các quốc gia phát triển, các đề tài thường được đặt ra để nghiên cứu giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp. Chìa khóa công nghệ là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển sản phẩm mới và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực, là chiếc đũa thần để phát triển đất nước thì từ bài học của các nước như Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy các đề tài KHCN phải gắn kết chặt chẽ với thực tiễn.
Để tránh hiện tượng các đề tài thực hiện xong “cất ngăn kéo”, gây lãng phí cho ngân sách quốc gia, theo tôi chúng ta cần hoàn thiện thể chế chính sách về khoa học công nghệ; hỗ trợ và đề cao tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu, trong các trường đại học; gắn kết chặt chẽ hoạt động đào tạo với nghiên cứu, gắn kết mục tiêu, nội dung nghiên cứu với nhu cầu của doanh nghiệp; đồng thời có cơ chế để đẩy mạnh gắn kết các hoạt động của doanh nghiệp với nhà trường, với các nhà khoa học; đổi mới phương thức tuyển chọn, giao nhiệm vụ KHCN; lấy tiêu chí giải quyết các yêu cầu thực tiễn là tiêu chí quan trọng nhất để tuyển chọn và đánh giá đề tài.
Theo ông, ngành giáo dục Việt Nam cần làm gì để giá trị của giáo dục là thực chất chứ không phải đối phó, thành tích như hiện nay?
– Dường như bây giờ kiểm tra đánh giá có phần dễ dãi hơn trước. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi và xuất sắc trong các trường THPT, các trường đai học hiện nay khá lớn.
Để tránh chạy theo bệnh thành tích, để thực hiện yêu cầu “học thật, thi thật, nhân tài thật”, thì chúng ta cần phải thực hiện đánh giá trình độ và năng lực người học một cách thực chất, từ khâu tuyển sinh đến khâu tổ chức, quản lý đào tạo, kiểm tra đánh giá đầu ra và sử dụng.
Cần xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá, chuẩn đầu ra của giáo dục hội nhập với các tiêu chí của khu vực và thế giới.
Sử dụng đúng người đúng việc, đúng tài năng, kiểm tra đánh giá nghiêm túc, công bằng và khách quan thì sẽ có nhân tài thật, thi thật, học thật.
Chính sách để thúc đẩy nghiên cứu khoa học ngay từ các trường đại học ở nước ta có khác gì các quốc gia khác? Theo GS đã đủ khuyến khích và cần cải tiến gì?
– Nhà nước ta từ trước đến nay luôn coi giáo dục là quốc sách và KHCN là động lực cho sự phát triển. Nhất là từ khi có Luật Khoa học Công nghệ cũng như Luật Giáo dục đại học thì công tác hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học được đặc biệt quan tâm. Nhờ đó, KHCN Việt Nam đã giải quyết nhiều vấn đề khoa học quan trọng, đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong hoạt động KHCN cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Nguồn lực thiếu, đầu tư nhỏ giọt,… Cơ sở pháp lý của chúng ta khá đầy đủ nhưng đôi chỗ lại chồng chéo và nhiều chính sách hay chưa đi vào cuộc sống.
Ví dụ như ở Nhật Bản hay Hàn Quốc, với một nhóm nghiên cứu mạnh, công bố khoảng 10-15 bài quốc tế, đào tạo khoảng 10 nghiên cứu sinh mỗi năm, sẽ được tài trợ cho nghiên cứu với kinh phí khoảng từ 1,5-3 triệu đô la (tương đương 34-68 tỷ đồng). Trong khi ở Việt Nam, kinh phí đầu tư cho KHCN và các nhóm nghiên cứu còn rất thấp.
Ngoài ra, tôi cho rằng phải đẩy mạnh NCKH gắn kết với doanh nghiệp để thực hiện những nhiệm vụ lớn. Bên cạnh đó, hiện nay thể chế đã khá tốt nhưng nhiều chính sách hay chưa đi vào cuộc sống nên phải tìm hiểu nguyên nhân để khắc phục và cần có chính sách đầu tư thỏa đáng, mạnh mẽ hơn nữa cho KHCN. Đặc biệt các trường đại học hiện nay phải coi đổi mới sáng tạo là tiêu chí, là mục tiêu và cũng sẽ là nguồn lực cho sự phát triển.
Có một điểm chung rất giống với nước ngoài, đó là nhóm nghiên cứu chính là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo trong nhà trường. Việc xây dựng, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học có tính tất yếu. Nhóm nghiên cứu vừa là phương thức, vừa là mục tiêu phát triển của các trường đại học nghiên cứu tiên tiến trên thế giới, trong đó với Việt Nam không là ngoại lệ. Để có nhiều nhà khoa học xuất sắc, trong thời gian tới, các trường đại học Việt Nam cần quan tâm xây dựng và đầu tư cho việc phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh nhiều hơn nữa.
So sánh thu nhập, các chế độ đãi ngộ… đối với các nhà khoa học của ta so với các nước khác thì như thế nào thưa GS?
– Ở Mỹ, các giáo sư hay những giảng viên ở cấp đại học là nghề nghiệp có mức lương cao và được tôn trọng hàng đầu trong giới hàn lâm, tri thức. Lương của một giáo sư đại học ở Mỹ trung bình khoảng 100.000 USD/năm, với các trường đại học lớn uy tín, lương giáo sư từ 150-300.000 USD/năm.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung, lương và đầu tư, đãi ngộ cho nhà khoa học ở nước ta còn thấp hơn nhiều so với nhiều nước phát triển trên thế giới.
Mới đây, một số trường đại học tự chủ đã có nguồn lực để thu hút chất xám, thu hút nhân tài. Các GS, trí thức giỏi ở những trường này được đã ngộ khá tốt và đã có mức lương khá cao so với mặt bằng chung ở Việt Nam.
Thưa GS, làm khoa học ở nước ta bây giờ có nghèo không?
Như tôi đã nói ở trên, mặt bằng chung mức lương của trí thức nước ta còn thấp so với các nước phát triển. Và có một thực tế là nếu so sánh lương sinh viên mới ra trường làm cho doanh nghiệp có thể sẽ nhiều hơn mức lương của thầy – 1 tiến sĩ trẻ.
Tuy nhiên, bên cạnh mức lương cơ bản, nhà khoa học có thể tham gia giảng dạy, các đề tài nghiên cứu và thu nhập được cải thiện. Hiện nay có một số trường đại học tự chủ và các giảng viên đã được trả lương khá tốt như Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường ĐH Quốc Tế – ĐHQG TP HCM, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Duy Tân… Đó là dấu hiệu đáng mừng và tôi tin trong thời gian tới, với chính sách tự chủ đại học sẽ tạo điều kiện cho nhiều trường đại học uy tín có đủ nguồn lực để đảm bảo tốt cuộc sống cho cán bộ giảng viên và thu hút được nhân tài.
Có một nghịch lý là xét về số lượng tiến sĩ và những người có học hàm, học vị, Việt Nam nằm top dẫn đầu ASEAN nhưng số lượng bằng sáng chế, phát minh lại vào loại thấp nhất. Theo GS nguyên nhân vì sao?
– Có nhiều nguyên nhân. Những năm 80, thời tôi đi học, những nghiên cứu sinh phải là người giỏi nhất và đi giảng dạy và nghiên cứu thâm niên khoảng 10 năm mới được đăng ký làm nghiên cứu (tôi là khóa đầu của chuyển tiếp nghiên cứu sinh, được làm NCS ngay sau khi tốt nghiệp xuất sắc đại học, nhưng vẫn phải tham gia tuyển chọn chung với tất cả mọi người và lấy từ trên xuống dưới, chỉ những ai đỗ trong số chỉ tiêu được giao mới được tuyển làm NCS). Như tôi được xếp loại xuất sắc. Có thể nói môi trường tuyển chọn để người đó có năng lực nghiên cứu rất chặt chẽ và nghiêm túc.
Nhưng cách đây 5, 6 năm, xã hội đã từng rất bức xúc vì có quá nhiều tiến sĩ giấy. Bên cạnh những cơ sở đào tạo tiến sĩ tốt thì vẫn có những nơi dễ dãi đầu vào và đầu ra, số lượng tiến sĩ nhiều khiến xã hội lên án.
Do đó, để KHCN phát triển, trước hết chúng ta phải có tiềm lực KHCN tốt, có chất lượng. Vì vậy các tiêu chí đánh giá TS, PGS, GS và các hoạt động KHCN phải đáp ứng được với chuẩn mực của thế giới.
Hai là để có nhiều phát minh sáng chế, phải lấy yêu cầu của các doanh nghiệp và thực tiễn cuộc sống làm đầu bài cho các đề tài KHCN.
Ba là đẩy mạnh triển khai mô hình 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp và nhà khoa học. Lấy đổi mới sáng tạo là mục tiêu cho KHCN.
Đồng thời, phải hoàn thiện thể chế, trong đó đặc biệt chú trọng sở hữu trí tuệ. Ở nước ngoài, một nhà khoa học có công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, khi chất xám đi vào cuộc sống có thể sống được cả đời với thành quả trí tuệ của họ.
Ở các nước nghiên cứu khoa học được đặt hàng rất cụ thể từ doanh nghiệp, tổ chức, từ đời sống nên tính hiệu quả, tính ứng dụng của nghiên cứu khoa học rất cao. GS chia sẻ thêm về điều này?
– Đúng vậy, ở nước ngoài, các trường đại học, viện nghiên cứu thường luôn đồng hành cùng doanh nghiệp và được đầu tư rất lớn từ các doanh nghiệp. Những đề tài này giải quyết các yêu cầu thực tiễn của doanh nghiệp nên đương nhiên tính hiệu quả, ứng dụng ngay, nhanh và luôn. Thậm chí nhiều doanh nghiệp lớn ở nước ngoài còn có viện nghiên cứu lớn, phòng thí nghiệm hiện đại.
Đầu tư cho KHCN và nguồn nhân lực chất lượng là xu hướng để phát triển, tồn tại của chính doanh nghiệp đó. Thậm chí nhiều doanh nghiệp còn có chiến lược săn đầu người, tìm người tài về làm việc.
Ở nước ta hiện nay có nhiều tập đoàn lớn như Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, VinGroup, Viettel, Phenikaa và một số doanh nghiệp khác đang rất chú trọng đầu tư cho các trường đại học và học viện nghiên cứu theo chiều hướng như thế. Tôi tin rằng, để vươn lên cạnh tranh thì phải có chất xám, có vai trò của KHCN và đó cũng sẽ là xu thế tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam, cũng không ngoại lệ.
Người ta thường nghĩ do đặc thù nghề nghiệp nên các nhà khoa học thường khô khan. Có đúng vậy không thưa GS? Một người lãng mạn thì có thích hợp làm khoa học không?
– Tôi nghĩ làm khoa học là hoạt động sáng tạo, vì vậy, lãng mạn là thuộc tính song hành với sáng tạo. Nhiều nhà khoa học tự nhiên, công nghệ tôi thấy không khô khan và thậm chí có thầy về toán mà làm thơ rất hay. Tôi tin là những người có tư duy sáng tạo thì sẽ lãng mạn. Vấn đề là họ thể hiện như thế nào thôi. Cá nhân tôi cũng cho rằng mình là một nhà khoa học có tâm hồn lãng mạn.
Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh giáo dục STEM thì ngoại ngữ và kỹ năng mềm cho sinh viên rất quan trọng. Với lợi thế đa ngành, đa lĩnh vực, các chương trình đào tạo trong ĐHQGHN cũng đã cho phép sinh viên chương trình này có thể chọn 1-2 môn bất kỳ ở chương trình khác. Ví dụ như 1 em học Công nghệ thông tin có thể chọn học phần Phát triển bền vững, Triết học, Văn hóa học, Tôn giáo học… Cấu trúc chương trình đào tạo như vậy sẽ định hướng phát triển toàn diện, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn lãng mạn, tâm hồn nhân văn trong mỗi nhà khoa học.
GS chia sẻ thêm về công trình nghiên cứu của mình và tính ứng dụng của công trình này hiện nay ra sao?
– Với vật liệu composite, thành tựu đầu tiên của tôi chính là nghiên cứu về vật liệu composite carbon-carbon bền và siêu bền. Vật liệu này thể chịu được vài nghìn độ, rất nhẹ có thể dùng trong tên lửa, an ninh quốc phòng. Những kết quả đó là tiền đề quan trọng cho những nghiên cứu sau này. Thời gian đó tôi cũng đã có bằng phát minh về quy luật ứng xử của vật liệu composite nhiều pha khi có sợi, có hạt, có cấu trúc nano.
Về nước, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của tôi và nhóm nghiên cứu là về các lĩnh vực: composite polyme nhiều pha dùng trong công nghiệp đóng tàu, vật liệu chống thấm, vật liệu chức năng và vật liệu nano,…
Bên cạnh nghiên cứu về ổn định tĩnh và động lực học của các kết cấu composite polyme nhiều pha, vật liệu chức năng FGM, vật liệu thông minh, chúng tôi cũng là một trong những nhóm tiên phong nghiên cứu kết cấu tiên tiến chế tạo từ các vật liệu mới khi có vết nứt, vật liệu nano ứng dụng làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời, vật liệu áp điện có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ), cũng như các vật liệu mới composite có tính chất đặc biệt sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt. Từ đó đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở ĐHQGHN.
Không chỉ là nhà khoa học giỏi, GS còn được ghi nhận là người thầy tâm huyết với sự nghiệp đào tạo. Thầy đã truyền lửa cho các em thế nào?
– Bên cạnh nghiên cứu khoa học, tôi rất tự hào khi là một giảng viên đại học. Sinh viên các ngành kỹ thuật của tôi thường từ vùng sâu, vùng xa, gia đình nghèo nhưng rất cần cù thông minh và có chí. Ban đầu, nhiều em chỉ có học lực trung bình, khá nhưng đi theo tôi tham gia nghiên cứu được truyền cảm hứng, sự say mê, các em hiểu được mình nghiên cứu như thế nào và để làm gì, được thầy và các anh chị dìu dắt tận tình nên không thấy sợ nghiên cứu mà có niềm đam mê. Từ những kết quả được khích lệ, các em tích lũy mỗi ngày và trở thành những sinh viên giỏi, xuất sắc.
Từ một nhóm nghiên cứu rất sơ khai ban đầu, chỉ trong thời gian từ 2010 đến nay, tôi đã xây dựng nên một nhóm nghiên cứu mạnh và PTN hiện đại theo mô hình mới ở Việt Nam, vừa đào tạo kết hợp với nghiên cứu khoa học, và vừa thành lập nên Bộ môn Công nghệ Kỹ thuật giao thông – đào tạo kỹ sư xây dựng ở Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN. Bằng sự kiên trì bền bỉ, niềm say mê nghiên cứu khoa học và sự phấn đấu nỗ lực, quên mình, thầy và trò trong PTN và nhóm nghiên cứu đã vững vàng, tự tin vươn lên tầm quốc tế từ nội lực. Tôi và các học trò trong nhóm nghiên cứu đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó gần 200 bài trên trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín. Tôi cũng đã xuất bản những sách chuyên khảo có giá trị bằng tiếng Nga, tiếng Anh, sở hữu 1 bằng phát minh, 1 bằng sáng chế.
Nhóm nghiên cứu của tôi cũng là nơi thắp sáng tài năng, đào tạo ra nhiều tài năng trẻ, những chuyên gia có trình độ cao thuộc lĩnh vực này. 2 học trò của tôi là TS. Trần Quốc Quân và PGS Hoàng Văn Tùng đã vinh dự từng được nhận giải thưởng Nguyên Văn Đạo – giải thưởng danh giá nhất của ngành Cơ học. TS Trần Quốc Quân cũng đã được Fobers Việt Nam vinh danh năm 2020. Đến nay, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã được cộng đồng khoa học trong, ngoài nước biết. Tôi cũng đã được mời tham gia vào hội đồng biên tập 10 tạp chí khoa học có uy, làm chuyên gia nhận xét, phản biện cho hơn 70 tạp chí ISI có uy tín của quốc tế và báo cáo ở nhiều hội nghị quốc tế có uy tín.
Những trí thức trẻ được đào tạo và trưởng thành trong các nhóm nghiên cứu mạnh như các học trò của tôi sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao, và tôi tin chính thế hệ trẻ ưu tú ấy sẽ là những nhân tố mới đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời gian tới.
Có người cho rằng một người làm nghề giỏi chưa hẳn là một nhà quản lý giỏi vì không phải ai cũng có năng lực quản lý. GS nghĩ sao về điều này?
– Tôi cho rằng điều đó có phần đúng nhưng còn tùy vào những trường hợp cụ thể. Đã có rất nhiều trường hợp nhà khoa học giỏi nhưng cũng có khả năng tổ chức, quản lý giỏi như GS Tạ Quang Bửu, GS Nguyễn Đình Tứ….
GS có thể tiết lộ về cuộc sống riêng của mình và ngoài công việc ra, lúc có thời gian rảnh rỗi, GS giải trí như thế nào?
– Thời gian rảnh rỗi tôi thường tập thể thao, đi bộ, tập gym, nghe nhạc và gặp gỡ bạn bè. Bà xã tôi cũng là cán bộ khoa học và công tác tại Viện hàn lâm Khoa học Xã hội. Tôi có 2 con, một gái, một trai, cả 2 cháu hiện cũng đang làm giảng viên tại ĐHQGHN.
Xin cảm ơn Giáo sư!