Nhóm nghiên cứu về vật liệu và kết cấu tiên tiến của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức ở Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong những nhóm nghiên cứu mạnh của Việt Nam, được biết đến trong cộng đồng khoa học trong nước và quốc tế. Bài học thành công của mô hình này đã chứng minh những cách đi sáng tạo và độc đáo để giáo dục đại học và khoa học Việt Nam tiếp cận nhanh và hiệu quả với các chuẩn mực của quốc tế.
(Bài đã được tóm lược đăng trên Dân trí, ngày 18.4.2019)
Thành lập nhóm nghiên cứu, xây dựng mô hình bắt đầu từ tâm huyết của một người thầy – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.
Hiện nay, nâng cao chất lượng giáo dục trong các trường đại học, tạo sản phẩm đầu ra (các em sinh viên) có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng nhu cầu của các cơ quan, doanh nghiệp, tập đoàn, công ty là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các trường đại học ở Việt Nam. Hơn thế nữa, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề đào tào nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể cạnh tranh trong môi trường quốc tế và khu vực đã thôi thúc GS.TSKH Nguyễn Đình Đức bắt tay vào thành lập Nhóm Nghiên cứu (NNC) của riêng mình.
Khởi đầu với nguồn tài chính bằng con số không để xây dựng NNC, năm 2010 GS Đức đã tập hợp, tuyển chọn, dìu dắt những sinh viên đam mê học tập và nghiên cứu khoa học. Ban đầu nhóm chỉ có thầy và vài trò; nơi làm việc cũng hết sức đơn sơ, chỉ là phòng làm việc của thầy sau giờ hành chính, giảng đường đã tan học hay quán nước nhỏ bên hè. Nhưng với tâm huyết của người thầy, sinh viên tìm đến tham gia vào nhóm ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh công việc học tập trên lớp, các sinh viên đã được GS. Nguyễn Đình Đức hướng dẫn tập trung nghiên cứu khoa học. Được sinh hoạt trong nhóm nghiên cứu, các sinh viên không chỉ nâng cao về kết quả học tập ở bậc đại học, quan trọng hơn, các em được làm quen và trưởng thành trong môi trường nghiên cứu khoa học. Mục đích của NNC được GS. Nguyễn Đình Đức xác định không chỉ công bố ở những tạp chí chuyên ngành có uy tín ở trong nước mà tham gia vào “sân chơi” khoa học chuyên ngành quốc tế. Để đạt được mục đích đó, GS. Đức đã tìm hiểu, nắm bắt được những hướng nghiên cứu mới của thế giới, triển khai trong NNC. GS. Nguyễn Đình Đức đã tận tình chỉ bảo, đã định hướng nghiên cứu cho từng sinh viên, giao bài tập tính toán, đôn đốc, kiểm tra kết quả, thảo luận và tiến tới công bố quốc tế. Cứ kiên trì như vậy, công lao của thầy và trò được đền đáp bằng những bài báo quốc tế trên các tạp chí có uy tín.
Như vậy, có thể nói, thành lập NNC với giai đoạn đầu là giai đoạn “khởi nghiệp” trong khoa học của thầy và trò gắn với những gặt hái đầu tiên là các bài báo công bố quốc tế. Đây là nền tảng rất quan trọng để NNC tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2107, đây là giai đoạn trưởng thành và bứt phá về mọi mặt của NNC. Thời kỳ này NNC có sự chuyển biến về chất. Trên cơ sở đó, năm 2014, GS. Nguyễn Đình Đức đã đề xuất và được lãnh đạo Trường ĐH Công nghệ – ĐHQG ủng hộ thành lập phòng thí nghiệm (PTN). Với mô hình và cơ cấu mới, PTN đã mở rộng hợp tác với các Bộ môn, PTN của quốc tế (Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, UK,…) và các trường đại học trong nước (Học Viện KTQS, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Việt Nhật…). Hoạt động của NNC không ngừng được thúc đẩy, mở rộng. Không chỉ sinh viên, NCS, Th.S các trường đại học mà cả những TS, PGS, GS đang là giảng viên các trường đại học trong và ngoài nước tham gia vào nhóm nghiên cứu. Lĩnh vực nghiên cứu cũng có bước đột phá từ nghiên cứu cơ bản sang nghiên cứu ứng dụng. PTN đã mở rộng các hướng nghiên cứu liên quan đến kỹ thuật hạ tầng, biến đổi khí hậu, các công trình đặc biệt, vật liệu tiên tiến, hợp tác sâu rộng với các nhà khoa học quốc tế, đầu mối tổ chức thành công những hội nghị quốc tế lớn có uy tín.
Xuất phát từ nhận thức: NNC có thể lúc mạnh, lúc yếu, nhưng để trường tồn và phát triển bền vững, NNC phải gắn với đào tạo. Sự phát triển của NNC phải gắn với việc mở các ngành mới, khoa mới, thành lập các tổ chức mới. Từ triết lý đó, trên nền tảng của NNC mạnh, GS. Nguyễn Đình Đức còn mở thêm Ngành và Khoa mới. Nắm bắt được hướng phát triển của kỹ thuật, công nghệ hiện đại không thể thiếu lĩnh vực vật liệu và kết cấu tiến tiến, GS. Nguyễn Đình Đưcx đã xin mở đào tạo chuyên ngành Vật liệu và Kết cấu tiên tiến tại Khoa Cơ học Kỹ thuật (Đại học Công nghệ, ĐHQGHN) vào năm 2015. Đến nay, Khoa đã bước sang năm thứ 4 đào tạo sinh viên theo chuyên ngành này. Ngoài ra, NNC cũng là chỗ dựa quan trọng để gây dựng ngành Kỹ thuật hạ tầng ở ĐH Việt Nhật và Ngành Kỹ sư Xây dựng-Giao thông ở ĐH Công nghệ. 3 năm sau, năm 2018, GS. Nguyễn Đình Đức tiếp tục thành lập Khoa mới – Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông, mở ra sự hợp tác mới với các Khoa, các Trường Đại học lớn, các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước. Ngoài ra, NNC cũng là chỗ dựa quan trọng để gây dựng ngành Kỹ thuật hạ tầng ở ĐH Việt Nhật và Ngành Kỹ sư Xây dựng-Giao thông ở ĐH Công nghệ.
Như vậy, từ mô hình NNC với hoạt động chính là nghiên cứu khoa học để có những công bố quốc tế, đã hình thành nên mô hình mới đó là PTN – nơi chuyển từ những nghiên cứu cơ bản sang nghiên cứu ứng dụng với kết quả là các bằng sáng chế khoa học. Cũng từ hạt nhân NNC, với sự đòi hỏi phát triển từ nội tại, các Ngành, Khoa mới được thành lập để đáp ứng nhu cầu đào tạo bổ sung nhân lực (các kỹ sư) cho xã hội và cho chính NNC. Các thành viên của NNC không chỉ sinh hoạt khoa học trong NNC mà còn là những thầy, cô giáo tham gia giảng dạy ở những Ngành, Khoa mới vừa thành lập. Đây là mô hình đào tạo rất mới, rất sáng tạo ở Việt Nam.
Mô hình NCC – mô hình đào tạo nhân tài theo hướng cá thể hóa.
Đến nay, NNC có 40 thành viên, đứng đầu là GS. Nguyễn Đình Đức trưởng nhóm, các thầy, cô là giảng viên ở các trường đại học, các TS trẻ, NCS, Học viên cao học và sinh viên. Mô hình đào tạo của NNC theo hướng cá thể hóa. Điều đó có nghĩa là, trách nhiệm của người đứng đầu NNC rất quan trọng. NNC được tổ chức hoạt động phân cấp theo cơ chế mềm. Đứng đầu là GS. Trưởng NNC, tiếp theo là các tiến sĩ, NCS rồi đến sinh viên các khóa.
Để nhóm NNC hoạt động hiệu quả trong nghiên cứu, đào tạo đến từng cá nhân, nhóm NNC được chia làm nhiều nhóm nhỏ. Đứng đầu phụ trách mỗi nhóm nhỏ do các tiến sĩ trẻ đảm nhận; chịu trách nhiệm triển khai, đôn đốc các nhiệm vụ khoa học khi được GS. Trưởng nhóm giao phó.
Trên cơ sở các hướng nghiên cứu chung, GS Trưởng NNC là người sẽ giao nội dung, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể cho từng thành viên hoặc cho các nhóm nhỏ dựa trên thế mạnh của họ. Khi nhận được nhiệm vụ từ GS. Trưởng nhóm, các TS trẻ đứng đầu mỗi nhóm chỉ bảo, dìu dắt cho các NCS trong nhóm; tiếp đến các NCS này lại dìu dắt, hỗ trợ cho các em sinh viên. Trong nhóm sinh viên, những sinh viên năm trên có nhiệm vụ giúp đỡ sinh viên năm dưới mới tham gia vào NNC. Hằng tuần, NNC đều tổ chức Seminar khoa học. Đặc biệt, thông qua hoạt động và hợp tác của NNC, các thành viên trong nhóm còn được tham gia các buổi thảo luận, tập huấn, Seminar của các GS nước ngoài. Qua đó, những vấn đề mới trong khoa học được bàn luận, giải đáp.
Trong quá trình tham gia NNC, nhiều sinh viên, NCS đã được cử đi thực tập tại các trường đại học lớn như ĐH Osaka (Nhật Bản), ĐH Birmingham (UK), …và doanh nghiệp có uy tín như CONINCO,…. Các em được tham dự hội thảo khoa học lớn trong nước và quốc tế. Sinh viên năm thứ 4 được thực tập thực tế 1 học kỳ ở một số công ty. Trình độ và kiến thức thực tế của sinh viên, NCS được nâng cao qua những lần được ra hiện trường, tiếp xúc với Tổng công trình sư, các kỹ sư, được đọc bản vẽ, tư vấn, giám sát cùng các kỹ sư…. Sau khi tốt nghiệp, những sinh viên, NCS có học lực và kết quả nghiên cứu tốt sẽ được giới thiệu chuyển tiếp nghiên cứu sinh hoặc đi làm việc ở nước ngoài. Ngược lại, NNC cũng là môi trường để tiếp nhận các NCS và cán bộ nghiên cứu của nước ngoài đến trao đổi, nghiên cứu tại Việt Nam. Bên cạnh hoạt động chuyên môn, NNC còn tổ chức các buổi tổng kết cuối năm, tham quan du xuân vào đầu năm, dã ngoại, viếng mộ các anh hùng liệt sĩ…
Như vậy, có thể thấy sau khi chuyển đổi từ đào tạo niên chế (tổ chức theo lớp, khóa, có giáo viên chủ nhiệm) sang hình thức đào tạo theo tín chỉ (không còn lớp biên chế cứng, sinh viên được chọn môn học, không còn giáo viên chủ nhiệm,…), do vậy, mối quan hệ hợp tác giữa những người học theo tín chỉ trở nên lỏng lẻo. Mô hình NNC chính là mô hình rất hiệu quả, không chỉ học gắn với hành mà còn gắn kết các GS, PGS, các thầy cô với sinh viên, NCS thành một khối thống nhất, trong đó, có sự dìu dắt, chỉ bảo và định hướng, giúp đỡ tận tình từ những người thầy và các thành viên trong nhóm. Các thành viên tham gia NNC được làm việc trong môi trường tập thể nhưng được giao nhiệm vụ chuyên môn riêng, được phát triển tài năng gắn với những thành quả khoa học của từng cá nhân. Mô hình NNC còn là mô hình không chỉ đào tạo, phát triển về chuyên môn khoa học mà còn giáo dục nhân cách, tinh thần làm việc nhóm, sự hợp tác và các kỹ năng mềm cho sinh viên một cách hiệu quả. NNC chính là mô hình đào tạo các tài năng theo hướng cá thể hóa, phù hợp với sự chuyển đổi của giáo dục đại học trong bối cảnh CMCN 4.0.
Tính ưu việt của mô hình NNC
Từ mô hình hoạt động NNC của GS. Nguyễn Đình Đưcx cho thấy, đây là hình thức thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng tập trung hóa và chuyên môn hóa hiệu quả. Các nhà nghiên cứu trong nhóm nỗ lực cùng phát triển mục tiêu chung, phối hợp nguồn lực và chia sẻ công việc nhằm hướng đến mục tiêu chung của nhóm. Sự gắn kết trong nhóm nghiên cứu thường được thúc đẩy bởi các hoạt động như sinh hoạt khoa học thường xuyên, khuyến khích các cuộc tranh luận mang tính tích cực và tăng cường sự tín nhiệm giữa các nhà nghiên cứu trong nhóm.
Mục tiêu của nhóm nghiên cứu là thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời kết hợp với đào tạo thông qua nghiên cứu. Thực tiễn từ mô hình của NNC của GS. Nguyễn Đình Đức cho thấy, việc hình thành các nhóm nghiên cứu tạo nên hệ thống nghiên cứu khoa học rất vững mạnh của tổ chức KH&CN, nhất là đối với các trường đại học. Nhóm nghiên cứu là nơi tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học kết hợp với đào tạo, cụ thể là đào tạo qua nghiên cứu. Kết quả của các nhóm nghiên cứu góp phần đẩy mạnh công bố quốc tế; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhân lực kế cận. Đồng thời, NNC khắc phục được hạn chế của một tổ chức/đơn vị nghiên cứu “cứng”. Nếu như hoạt động của một đơn vị nghiên cứu “cứng” thường bị ràng buộc bởi các giới hạn mang tính thể chế về chức năng, nhiệm vụ, cấu trúc hành chính, nguồn lực,…thì nhóm nghiên cứu hầu như không bị ràng buộc bởi các giới hạn này. Mặc dù vậy, các quyền tự trị về quản lý, tự chủ về nguồn lực và tự do về học thuật của nhóm nghiên cứu luôn đi cùng với trách nhiệm đạt được mục tiêu của họ, đây chính là điều kiện để nhóm nghiên cứu tiếp tục tồn tại và phát triển. Từ NNC có thể thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước trong đào tạo và nghiên cứu theo mô hình “Uber hóa’’ trong giáo dục.
NNC cũng chính là môi trường để thu hút nhân tài, triển khai hội nhập quốc tế trong hoạt động đào tạo và NCKH. Mấu chốt thành công của mô hình này trước hết, người thầy (trưởng nhóm) phải tâm huyết, dẫn dắt được NNC tới các hướng nghiên cứu hiện đại, khích lệ được sự đam mê, tham gia tích cực với hoài bão khoa học của các em NCS và sinh viên.
Mô hình này được đánh giá là rất thành công bởi đã đào tạo được những NCS, sinh viên không chỉ có chất lượng tốt, có nền tảng kiến thức vững chắc về toán học, vật lý, cơ học, CNTT,…, có kinh nghiệm thực tế mà còn được tôi luyện về ý chí, tinh thần và sức sáng tạo mỗi khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề khoa học mới.
Kinh nghiệm của các nước tiên tiến đã chỉ ra, NNC mạnh chính là hạt nhân phát triển của những Trung tâm nghiên cứu xuất sắc (CoE) trong trường đại học. Việc hình thành các Trung tâm nghiên cứu xuất sắc trong trường đại học từ các nhóm nghiên cứu mạnh đã tạo ra những đơn vị hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, và đổi mới ở trình độ cao. Trong vài thập kỷ gần đây, các Trung tâm nghiên cứu xuất sắc đã rất phát triển trong nhiều trường đại học, trong đó, ở cả các nước có nền khoa học tiên tiến (Mỹ, Nhật, Anh, Úc, Hàn Quốc, Trung Quốc,…) và các nước đang phát triển (Brazil, Saudi Arabia,…). Mỹ là nước đi đầu và có nhiều thành công trong lĩnh vực này. Ví dụ, Viện Richard E.Smalley – Đại học Rice (thành lập năm 1993), được xem là một Trung tâm xuất sắc với sứ mệnh dẫn đầu thế giới về nghiên cứu công nghệ nano. Đã có hai nhà khoa học (đồng thời cũng là các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh) của Viện được nhận giải Nobel về hóa học năm 1996 là R.Smalley và R.Curi. Năm 2005, viện này được tạp chí Small Time bầu là viện nghiên cứu đứng đầu thế giới về công nghệ nano.
Một số kết quả của mô hình NNC
Chỉ sau 9 năm xây dựng và phát triển, NNC của GS. Nguyễn Đình Đức đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong nghiên cứu và đào tạo, đồng thời góp phần phục vụ thực tiễn. NNC đã công bố 250 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có 125 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín, được cấp 1 bằng sáng chế trong sản xuất chế tạo vật liệu nanocomposite, xuất bản giáo trình và sách chuyên khảo (bằng tiếng Anh) phục vụ đào tạo đại học, sau đại học, đã có 5 NCS bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ và đang đào tạo 10 NCS. Đến nay ngành Cơ học Việt Nam đã trao 5 giải thưởng Nguyễn Văn Đạo cho các nhà khoa học trẻ tài năng thì 2 học trò trong NNC là TS Hoàng Văn Tùng và TS Trần Quốc Quân đã vinh dự được nhận giải thưởng này. Tất cả các thành viên tham gia NNC đều gặt hái được nhiều bài báo quốc tế, đặc biệt là các em NCS, sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã có bề dày thành tích về công bố quốc tế như Phạm Hồng Công 23 bài ISI, Trần Quốc Quân 20 bài ISI, Vũ Thị Thùy Anh 9 bài ISI, Vũ Đình Quang 7 bài ISI, Phạm Đình Nguyện 6 bài ISI,…Uy tín của nhóm nghiên cứu đã vang xa và có sức thu hút trong cộng đồng khoa học quốc tế.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và các học trò trong NNC bảo vệ luận án TS
NNC cũng giữ vai trò nòng cột tổ chức nhiều hội nghị quốc tế có uy tín thành công như ICEMA 2010, ICEMA2012, ICEMA2014, ICEMA2016, Hội nghị quốc tế về tối ưu hóa theo thuật toán của bầy ong (3/2018) và Hội nghị quốc tế về tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS TM 2018 (9/2018) với hàng trăm nhà khoa học hàng đầu của quốc tế tham gia,…
Chính nhờ mô hình hoạt động hiệu quả, có uy tín và chất lượng như vậy, NNC đã và đang có quan hệ hợp tác bình đẳng, ngang tầm với các nhà PTN và các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,….như Đại học Công nghệ Tokyo và Đại học Tổng hợp Tokyo (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Melbourne(Úc), Đại học Birmingham (UK), ĐH Yonsei (Hàn Quốc), Đại học Tổng hợp Matxcova MGU (Liên bang Nga),…GS trưởng NNC cũng là thành viên của Hội đồng quốc tế về tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS, thành viên Ủy ban quốc tế về vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi FGM và thành viên ban biên tập của nhiều tạo chí quốc tế ISI.
Như vậy, nếu so sánh về nguồn tài chính đầu tư vô cùng ít ỏi và thành tựu đạt được của một NNC như trên cho thấy mô hình NNC vừa có ưu điểm gọn nhẹ và hiệu quả hơn hẳn một số Viện, Trung tâm nghiên cứu trong nước.
Còn so sánh kinh phí đầu tư NNC trong nước của GS. Nguyễn Đình Đức với mô hình của các NNC mạnh trên thế giới, thì chỉ bằng 1%.
Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất so với nước ngoài, là khi có kinh phí, có dự án đề tài mới thành lập NNC; nhưng ở Việt Nam, qua mô hình của NNC của GS. Nguyễn Đình Đức cho thấy, dẫu còn nhiều khó khăn thiếu thốn, nhưng NNC vẫn được hình thành và phát triển hiệu quả và phát triển bằng nội lực made in Vietnam 100%.
——————————–